M

Hãy lấy điện thoại thông minh ra khỏi con cái của bạn

Ngày nay, trong việc giáo dục không phải là người lớn giáo dục con cái mà chính xác là ngược lại. Trong khi điện thoại không chuẩn bị cuộc sống cho trẻ em mà thay vào đó là đánh lạc hướng chúng. Trên đây là nhận định của báo «Neue Zürcher Zeitung», Thụy Sĩ.
Điện thoại thông minh cho trẻ em: có hay không?20181117 Take the smartphone out of your children
Điện thoại thông minh cho trẻ em: có hay không? Câu hỏi này hiện đang gây chia rẽ ý kiến của nhiều bậc cha mẹ. Sự lúng túng, bối rối phát triển cùng với sự lan truyền của các thiết bị, và sau khi người lớn bây giờ nó ảnh hưởng đến trẻ em. Cuối cùng nó là hiệu ứng mạng áp đặt sắc điệu. Càng nhiều người có một trong những thiết bị này thì càng có nhiều người nghĩ họ cần nó. Nhưng cuộc thảo luận được tiến hành một cách hời hợt, hoặc thế nào là một câu hỏi chủ yếu của thời đại kỹ thuật số: bạn nghĩ gì về tiến bộ? Thay vào đó bạn nên hỏi: điện thoại thông minh đã cung cấp cho trẻ em những gì và đã lấy những gì nơi chúng?
Một cuộc xung đột xuất hiện ở đây vượt ra ngoài câu hỏi liệu một chiếc máy tính bỏ túi giá trị phải nằm trong tay của một đứa trẻ mười tuổi. Câu hỏi trung tâm là các thông số của giáo dục, và chúng đã di chuyển rất nhiều. Lỗi này không phải là những đòi hỏi của trẻ em, mà là thái độ của cha mẹ. Lợi ích của trẻ em đối với một số người không còn có nghĩa là làm điều tốt nhất cho trẻ em hoặc ủng hộ sự phát triển của chúng, nhưng chỉ đơn giản là làm những gì trẻ em muốn.
Thảo luận về mối liên hệ với thế giới của ngày mai, mà dường như không muốn bỏ lỡ chuyến tàu, là chỉ là một cái cớ
Ngày nay, không phải là cha mẹ giáo dục con cái của họ, nhưng ngược lại. Cha mẹ che giấu sự thiếu hiểu biết của họ về những nguy hiểm và tác dụng phụ của việc sử dụng điện thoại thông minh quá sớm đằng sau ảo tưởng rằng con cái của họ bằng cách nào đó gần gũi sớm với phương tiện này sẽ biết thêm về nó.
Vai trò của cha mẹ
Sau thời đại “cha mẹ-máy bay trực thăng”, người không bao giờ mất tầm nhìn đến đứa trẻ, và “cha mẹ – xe ủi đất”, những người loại bỏ tất cả các vấn đề để đứa trẻ không bao giờ học cách đối diện với chính mình, bây giờ đến giai đoạn “cha mẹ-hướng dẫn”, những người cảm thấy họ phải đọc tất cả mong muốn từ đôi mắt của đứa trẻ.
Chúng ta không ảo tưởng: Đằng sau việc từ chối giáo dục kỹ thuật số, trong sự phân tích cuối cùng đó là mong muốn sự thoải mái của cha mẹ. Tuy nhiên, dán nhãn tiêu thụ và giải trí như phương pháp sư phạm cũng vô dụng như trong quá khứ về cuộc tranh luận việc tiêu thụ truyền hình hoặc trò chơi điện tử.
Cuộc trò chuyện về kết nối với thế giới của ngày mai, mà dường như không thể bị mất, chỉ là một cái cớ. Các điện thoại thông minh không chuẩn bị trẻ em cho cuộc sống, nhưng thay vì đánh lạc hướng. Nhiều trẻ em tự cô lập, bởi vì các em không thấy nhiều ý nghĩa trong kinh nghiệm chung.
Những người vận động hành lang kỹ thuật số thường phản ứng xúc phạm trước những lời chỉ trích về điện thoại thông minh; bản thân họ xem cuộc tranh luận là ngược dòng và đầu độc. Bởi vì, trẻ em phải được sử dụng như vật thí nghiệm cho sự lạc quan ngây thơ của những người lớn hơn không được hiểu. Sự phụ thuộc vào ứng dụng hiện không chỉ hỗ trợ các nhà phê bình, mà còn là những người xây dựng chính bản thân. Có lẽ từ một quảng cáo không được mong đợi một bình luận xã hội, nhưng ít nhất anh ta cống hiến một số điểm phê bình, mà nhiều hơn hiện tại so với kiểu tóc của riêng mình.
Ngọc Yến 
Nguồn: Vatican

Thương mại công bằng và Giáo huấn Xã hội Công giáo

Trong bối cảnh thế giới ngày càng toàn cầu hoá, thương mại công bằng (fair trade) nổi lên như một vấn đề thời sự bức bối. Giáo huấn xã hội Công giáo cập nhật chủ đề này trong 5 số 251-255 Docat, tài liệu giáo huấn xã hội cho giới trẻ phát hành tháng 7 năm 2016.
Thương mại công bằng được bàn đến ở phần cuối Chương 9 – Cộng đồng quốc tế (các câu 229-255), sau phần nói về “toàn cầu hoá”, “nghèo đói là gì”, “của cải thuộc về cộng đồng thế giới” và “vấn nạn di dân”.
Hands of Coffee Worker Holding Beans
.
Từ quan hệ kinh tế quốc tế vĩ mô…
“Hôm nay, tôi có mặt tại đây để làm mới quan hệ đối tác với Mỹ, để cùng nhau củng cố mối liên kết bằng hữu và thương mại giữa tất cả các quốc gia của khu vực Ấn Độ- Thái Bình Dương, và cùng nhau thúc đẩy thịnh vượng và an ninh.
Điểm cốt lõi của mối hợp tác này, chúng ta muốn thúc đẩy mối quan hệ thương mại xây dựng trên nguyên tắc công bằng và cùng có lợi”.
Trên đây là lời Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump phát biểu tại Đà Nẵng, Việt Nam trong Hội nghị APEC 2017 ngày 10 tháng 11 năm 2017. Ông nói tiếp, nhấn mạnh nguyên tắc “thương mại công bằng”:
“Tôi sẽ thực hiện thỏa thuận thương mại song phương với bất cứ quốc gia Ấn Độ-Thái Bình Dương nào muốn là đối tác của chúng tôi và sẽ tuân thủ nguyên tắc thương mại công bằng và có lợi đôi bên”.
Ngay cả Hoa Kỳ, một siêu cường kinh tế thế giới, mà cũng là nạn nhân của những trò chơi xấu, không tuân thủ luật chơi. Trong khi Hoa Kỳ “giảm rào cản thị trường thì những quốc gia khác lại không mở cửa thị trường”, “tuân thủ các nguyên tắc của WTO về bảo vệ sở hữu trí tuệ và bảo đảm tiếp cận thị trường công bằng và bình đẳng”, thì một số quốc gia khác, theo lời ông Trump, “tham gia vào việc phá giá sản phẩm, hàng hóa được bao cấp, thao túng tiền tệ, hàng hóa, và chính sách công nghiệp diệt lẫn nhau”.
… cho đến đời sống thường nhật, thương mại công bằng trống vắng và bị vi phạm
Không phải tất cả các giao dịch thương mại đều công bằng! Trong cuộc sống hàng ngày, nông dân và công nhân – những người đứng đầu chuỗi sản xuất – thường không nhận được lợi nhuận thỏa đáng trong các hoạt động thương mại.
Vì lý do đó, Tổ chức Thương mại Công bằng Thế giới (WFTO) quy định 10 tiêu chuẩn mà các tổ chức thương mại cần tuân thủ thì mới được gắn nhãn thương mại công bằng, mới dễ tiêu thụ được sản phẩm:
1.       Tạo ra cơ hội cho những người sản xuất nhỏ bị thiệt thòi về kinh tế
2.       Thông tin công khai và minh bạch
3.       Các hành vi thương mại công bằng
4.       Công bằng trong thanh toán
5.       Không có lao động trẻ em và lao động bị ép buộc
6.       Không phân biệt đối xử, bình đẳng giới, tự do lập nghiệp đoàn
7.       Các điều kiện làm việc tốt
8.       Khả năng phát triển quy mô sản xuất và năng lực của người sản xuất
9.       Đẩy mạnh thương mại công bằng
10.    Bảo vệ môi trường
Screen Shot 2017-11-14 at 21.04.09
Thương mại công bằng trong giáo huấn xã hội Công giáo
Thương mại công bằng, đề tài lần đầu được bàn đến trong giáo huấn xã hội Công giáo trong quyển Docat xuất bản nhân ngày khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế giới 2016 trong đó Đức thánh cha Phanxicô đưa ra lời kêu gọi một triệu người trẻ thế giới hưởng ứng lời kêu gọi tiến hành cuộc “cách mạng về tình yêu và công bằng” của ngài, trở nên “học thuyết xã hội trên đôi chân”.
Trong 5 câu Docat nói về chủ đề này, chỉ có một câu có tham chiếu đến 3 số (362, 363 và 364) trong quyển Tóm lược Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo  (TLHTXH), 4 câu còn lại không có tham chiếu gì, nghĩa là thương mại công bằng mới đến nỗi Giáo lý Hội Thánh Công giáoYoucat cũng như TLHTXH không đề cập gì đến vấn đề này.    
Trước hết Docat khẳng định nhờ toàn cầu hoá, thế giới trở nên gần gũi, giúp ích một số nước nhưng làm nảy sinh nhiều vấn đề sinh thái và xã hội tại nhiều nước, chắc hẳn trong đó phải có Việt Nam.
Docat 251. Các vấn đề nào phát sinh liên quan đến thương mại toàn thế giới?
“Theo sau việc toàn cầu hoá, các quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên khắp thế giới cũng đã trở nên gần gũi hơn. Điều này đã giúp một số nước; tuy nhiên, tại nhiều nước khác, nó đã làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội và sinh thái. Tất nhiên, trong việc lựa chọn mua hàng của tôi với tính cách là một người tiêu dùng cá nhân, tôi có rất ít cơ hội tác động lên cách thức mà việc kinh doanh được tiến hành. Do đó, điều quan trọng là chính phủ các quốc gia phải giải quyết vấn đề này hoặc lập ra các tổ chức hỗ trợ cho các cơ cấu thương mại trở nên công bằng hơn”.
TLHTXH 362-364
Trước tình hình đó, Giáo Hội lên tiếng kêu gọi “công bằng trong các quan hệ thương mại, quan tâm tới quyền lợi và nhu cầu của người nghèo mỗi khi đưa ra chính sách có liên quan tới thương mại và sự hợp tác quốc tế”:
“Chính vì chứng kiến tình trạng cứ liên tục xấu đi trong việc trao đổi các nguyên liệu thô và sự ngăn cách ngày càng lớn giữa các nước giàu và các nước nghèo, nên huấn quyền xã hội của Giáo Hội đã phải gấp rút nói lên tầm quan trọng của các tiêu chuẩn đạo đức, kêu gọi lấy đó làm nền tảng cho các quan hệ kinh tế thế giới như: theo đuổi công ích và mục tiêu phổ quát của của cải; công bằng trong các quan hệ thương mại; quan tâm tới quyền lợi và nhu cầu của người nghèo mỗi khi đưa ra chính sách có liên quan tới thương mại và sự hợp tác quốc tế. Bằng không, “các nước nghèo sẽ vẫn cứ nghèo, còn các nước giàu sẽ ngày càng giàu hơn” (TLHTXH, 364).
Docat 252 đưa ra định nghĩa về thương mại công bằng:
“Thương mại công bằng liên quan đến việc mua bán được thực hiện theo các nguyên tắc rõ ràng về công lý (công bằng). Các tổ chức thương mại công bằng xác định những nguyên tắc này và điều phối các quan hệ thương mại. Họ thúc đẩy sự công bằng rộng lớn hơn trong thương mại quốc tế bởi vì họ củng cố các quyền của những nhà sản xuất (như các chủ nông trại nhỏ và các chủ đồn điền) và góp phần vào sự phát triển bền vững ở các nước liên quan. Để đạt được điều này, họ dấn thân vào một cuộc đối thoại giữa các đối tác thương mại, gia tăng tính minh bạch trong các quan hệ sản xuất và thương mại, và cũng tôn trọng tất cả các bên có liên quan”.
Để thúc đẩy thương mại công bằng, Docat 253 kêu gọi đề ra các biện pháp:
  • tạo ra cơ hội cho các nhà sản xuất gặp bất lợi về kinh tế;
  • khuyến khích các phương pháp sản xuất mang tính công bằng xã hội;
  • tạo ra các điều kiện làm việc thoả đáng (lương, giờ giấc làm việc, cấm lao động trẻ em, v.v.), và các quyền bình đẳng cho phụ nữ;
  • phát triển các tiêu chuẩn về môi trường;
  • thiết lập các quan hệ “đối tác” dài hạn giữa các quốc gia.
Docat 254 nêu ra các hoạt động hiệu quả của thương mại công bằng như:
  • giúp chống lại nạn nghèo đói trên một số lục địa, đặc biệt ở các vùng nông thôn;
  • cải thiện các điều kiện sống của các nhà sản xuất và người lao động ở nhiều nước đang phát triển;
  • góp phần thay đổi các mối quan hệ mà cán cân quyền lực bị nghiêng hẳn về một bên và do đó làm giảm bớt con số các nước bị lệ thuộc.
Tuy nhiên, Docat 255, kết luận thương mại công bằng vẫn chưa đủ để giải quyết các vấn đề đói nghèo: “cần phải được phát triển hơn nữa để phát huy những hiệu quả tích cực của nó”. Về lâu về dài, tất cả các mối quan hệ thương mại trên toàn thế giới phải được hướng dẫn bởi các tiêu chí của thương mại công bằng. Để điều đó có thể xảy ra, điều cần thiết là các thành viên của cộng đồng quốc tế cũng phải hoạt động cho sự nghiệp này về mặt chính trị và hỗ trợ thương mại công bằng mạnh mẽ hơn hoặc chính họ cam kết thúc đẩy quan hệ thương mại mang tính nhân văn và có trách nhiệm trong sự liên đới với tất cả các dân tộc”.
Thuận Kiệt
Nguồn: dcctvn.org

Lăng tử đạo truyền cảm hứng cho người Công giáo sống đức tin

Những người chết vì đức tin là mẫu gương cho tha nhân sống theo các giá trị Kitô giáo
Ngày 2 tháng 11 năm 2018
Lăng tử đạo truyền cảm hứng cho người Công giáo sống đức tin
Khách hành hương viếng Lăng Các Vị Tử Đạo tại giáo xứ Nước Ngọt thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, hôm 13-10. Cô Maria Nguyễn Thị Minh, thành viên tu hội đời ở địa phương, thắp hương trước Lăng Các Vị Tử Đạo tại tỉnh Thừa Thiên Huế.Cô Minh bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các vị tử đạo đã giúp cô làm chứng cho đức tin Công giáo trong thời điểm khó khăn.“Các ngài đã giúp sức cho tôi can đảm, không biết sợ để vượt qua sự kỳ thị tôn giáo trong nhà trường vào thời bao cấp”, cựu giáo viên trung học phổ thông dạy môn toán, lý và hóa từ năm 1977 đến 1982, chia sẻ.Cô Minh cho biết hiệu trưởng và ban giám hiệu cố ý tổ chức học chính trị và lao động vào các ngày Chủ nhật nhằm ép cô bỏ lễ.“Mỗi lần tôi đi lễ về, thì hiệu trưởng phạt tôi làm tờ kiểm điểm để trừ ngày phép trong năm và phần mua bổ sung trong tem phiếu của tôi”, cựu giáo viên 60 tuổi kể. “Cuối cùng không khuất phục được, họ đã sa thải vì tôi không chịu bỏ lễ ngày Chúa nhựt”.Cha Phanxicô Xaviê Hồ Văn Uyển, chánh giáo xứ Nước Ngọt, kể với khách hành hương hôm 13-10 rằng Lăng Các Vị Tử Đạo là nơi an nghỉ của cha Giuse Tống Văn Vĩnh và 43 giáo dân bị quân lính giết hại vào ngày 8-12-1883 trong cuộc bách hại đạo Công giáo.Cha Vĩnh, cựu chánh xứ giáo xứ này, cùng các giáo dân quyết định ở lại trong ngôi nhà thờ được làm bằng lá cây sau khi nghe tin quân lính sẽ tấn công họ.Cha Uyển kể vị tiền nhiệm ngồi tòa giải tội cho giáo dân trước khi bị chặt đầu. Thi thể của ngài bị ném xuống giếng. Giáo dân thì bị quân lính thiêu sống trong nhà thờ. Hài cốt của họ được chôn cất tại nghĩa trang địa phương.Ngài cho biết hài cốt của các vị tử đạo được cải táng tại khuôn viên nhà thờ cũ với diện tích 2.000 mét vuông năm 1913. Người Công giáo địa phương dựng một tấm bia in hình các vị tử đạo trên lăng tử đạo vào năm 2000.Lăng tử đạo rộng 145 mét vuông được trùng tu tháng 6 vừa qua nhân kỷ niệm 30 năm ngày tôn phong thánh cho 117 vị thánh tử đạo Việt Nam.Nhà thờ Nước Ngọt hiện nay thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, được xây năm 1925 và cách lăng tử đạo 600 mét. Giáo xứ được thành lập năm 1742, hiện nay có 2.678 người Công giáo.Anh Phaolô Nguyễn Văn Đại, trước đây là một tay cờ bạc, mê cá độ đá banh và xa lìa nhà thờ, cho biết anh đã bỏ được các tật xấu nhờ các vị tử đạo.Bố của 3 người con kể hôm 19-6 trong lúc đang trên đường đi cầm cố chiếc xe máy, anh thấy đoàn kiệu các vị Thánh Tử Đạo đi qua, anh dừng xe lại và chiêm ngắm, và anh cảm thấy lương tâm mình cắn rứt, muốn trở về với Chúa.“Tôi đã xưng tội xin lỗi Chúa, xin lỗi vợ con và được mọi người trong gia đình tha thứ”, người đàn ông 47 tuổi kể sau khi dâng hương trước Lăng Các Vị Tử Đạo hôm 13-10.Bà Nguyễn Thị Cảo, không theo Công giáo sống gần lăng tử đạo, cho biết hàng tháng bà thường thắp hương trước lăng tử đạo để cầu nguyện cho các thành viên trong gia đình được bình yên.“Tôi cầu nguyện và con cháu tôi được bằng an, chúng tôi ở đây tuy là người ngoại đạo nhưng chúng tôi rất tin các linh hồn chết oan ngày xưa ở ngôi miếu này (lăng các vị tử đạo)”, bà Cảo, 75 tuổi, nói và cho biết thêm người ngoài Công giáo ở đây gọi lăng tử đạo này là miếu các ngài.Cha Uyển cho biết người Công giáo địa phương còn noi gương các vị tử đạo làm chứng cho các giá trị Kitô giáo trong xã hội ngày nay. Họ được kêu gọi lên tiếng phản đối bạo lực, bất công trong xã hội và bảo vệ những người thấp cổ bé họng.Lăng Các Vị Tử Đạo được tuyên bố là một trong 6 điểm hành hương trong Năm Thánh kỷ niệm 30 năm ngày tôn phong các thánh tử đạo Việt Nam trong Tổng Giáo phận Huế. Hơn 10.000 khách hành hương đã viếng lăng tử đạo 2 lần một tháng.Tổng giáo phận này có 40 lăng tử đạo và 6 khu di tích lịch sử khác liên quan đến các vị tử đạo, ghi nhận có 12 linh mục và khoảng 10.000 người Công giáo bị giết hại vì đức tin, trong đó có 12 vị đã được tôn phong thánh.
Nguồn: vietnam.ucanews.com

ĐI TÌM NGƯỜI NÓI CÂU : “Tin đạo chứ không tin người có đạo”.

“Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh Kitô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người Kitô hữu.
Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh Kitô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh Anrê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng : những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông”. Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng”.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là Kirô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo nhưng vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.

Lạy các Thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen
(Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Nguồn: Từ Facebook

ĐI TÌM NGƯỜI NÓI CÂU : “Tin đạo chứ không tin người có đạo”.


“Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh Kitô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người Kitô hữu.
Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh Kitô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh Anrê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng : những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông”. Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng”.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là Kirô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo nhưng vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.

Lạy các Thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen
(Lm. Jos Tạ duy Tuyền)
Nguồn: Từ Facebook

“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” – Bài giảng Lễ Truyền chức Linh mục tại GP Vinh 24/11/2018



939
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em
 1- Kể từ khi Đức Giêsu bị bắt và bị giết chết, một bầu khí sợ sệt, thê lương, hãi hùng bao trùm trên tất cả môn đệ của Ngài. Có những người đi theo Chúa vì ước vọng trần thế hay mục đích chính trị nào đó đã sớm vỡ mộng, âm thầm rút lui vào bóng tối hay lặng lẽ rời Giêrusalem, lên đường trở về quê xưa, nghiệp cũ. Nhóm môn đệ thân tín nhất có lẽ vẫn tiếp tục hội họp với nhau nơi đã tổ chức Bữa Tiệc ly, nhưng trong tâm trạng hoảng loạn, u sầu, khiếp đảm. Thánh Gioan cho biết, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.
Thật vậy, các ông khiếp sợ bị đóng đinh như Chúa. Các ông sợ Tòa Công Luận truy nã, sai lính đến bắt. Các ông hội họp nhau trong kinh hoàng, sợ hãi: Sợ từng bước chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gió hú, nhất là những tiếng gõ cửa. Nỗi sợ này, vô hình trung, đã làm cho các ông hoàn toàn bị tê liệt, co rúm lại, hốt hoảng nhốt mình trong phòng kín.
Chính trong hoàn cảnh bi đát đó, Đức Giêsu Phục sinh đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Bình an này không chỉ là cảm giác an toàn bên ngoài, mà là sức mạnh nội tâm giúp các môn đệ không những lướt thắng nỗi khiếp sợ, mà còn can đảm đối diện với những bách hại, thất bại, khổ đau trong cuộc sống.
Sau khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đức Giêsu tiếp tục ban bình an và trao sứ vụ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu đến trần gian với sứ điệp cứu độ, đầy yêu thương, cho mọi người. Bây giờ, Ngài sắp từ giã trần gian để về với Chúa Cha. Ngài cần chúng ta để tiếp tục đem sứ điệp ấy đến cho mọi người, ở mọi thời, mọi nơi. Có thể nói, các môn đệ chính là những dụng cụ, những bàn tay, những cái miệng, những cộng tác viên Ngài cần đến.
Ở đây, thiết tưởng cần nhấn mạnh và đặt nổi mối tương quan đặc biệt giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha và giữa Chúa Giêsu với Giáo Hội. Chính vì vậy, dựa theo Tin Mừng Gioan, thiết tưởng cần thêm một vế nữa vào công thức trao ban sứ vụ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” và “Như Thầy đã tuyệt đối thi hành thánh ý của Chúa Cha, anh em cũng phải triệt để vâng phục lệnh truyền của Thầy”. Thật vậy, chúng ta chỉ trở thành sứ giả và công cụ của Đức Kitô, khi chúng ta yêu mến và vâng phục Ngài. Chúng ta không có quyền ra đi loan truyền sứ điệp hay quan điểm của riêng mình, mà phải rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô. Dụ ngôn cây nho diễn tả sâu sắc ý tưởng này.
Để giúp các môn đệ ý thức rõ rệt sứ vụ và trách nhiệm đó, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như vậy, Đức Kitô đã trao ban cho các môn đệ đồng thời lời cầu chúc bình an, quyền tha tội và sứ vụ loan báo Tin Mừng.
2- Thần học trước Công đồng Vatican II đặt nền tảng của chức linh mục nơi lệnh truyền của Đức Kitô khi thiết lập bí tích Thánh Thể: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Theo quan điểm thần học này, Đức Kitô thiết lập chức linh mục để có người cử hành Thánh Thể. Vì vậy, linh mục là người được thánh hiến trước tiên là để làm lễ. Việc loan báo Tin Mừng được coi như một thành phần của sứ vụ giảng huấn, thậm chí được cho là một công tác nhiệm ý hoặc nằm bên lề công tác mục vụ.
Công đồng Vatican II đã đặt tất cả chương trình và sinh hoạt của Giáo Hội dưới ánh sáng của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Sống và loan báo Tin Mừng, vì vậy, là sứ vụ duy nhất, được thực hiện nhờ hoạt động giảng dạy, phục vụ, quản trị và cử hành bí tích. Chức linh mục phải được nhìn trong căn tính thừa sai của Giáo Hội để làm chứng cho Đức Kitô, với một chuỗi những cuộc sai đi:Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em; Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.   
Hy lễ tạ ơn vẫn luôn luôn là nguồn mạch, trung tâm và cao điểm của đời sống Kitô hữu, tuy nhiên không phải là hoạt động đầu tiên và ưu tiên nhất, càng không phải là hoạt động duy nhất của linh mục. Về vai trò cốt yếu của sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thánh Phaolô đã nói thẳng, chẳng hề vòng vo, úp mở: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng” (1Cor 1,17).
Với chủ trương trở về nguồn Kitô giáo, Công đồng Vatican II tái khẳng định: Loan báo Tin Mừng là sứ vụ thiết yếu và ưu tiên của linh mục (PO 4). Thật vậy, “các linh mục hiện hữu và hoạt động để loan báo Tin Mừng cho thế giới và để xây dựng Giáo Hội trong vai trò của Chúa Kitô là Đầu và Mục Tử” (PDV).
Tại giáo phận chúng ta, người ta thường đề cao mẫu linh mục gắn bó lâu năm với một giáo xứ, chăm lo cho giáo dân và đầu tư trọn vẹn công sức để xây dựng cơ sở, lo phụng vụ, hội đoàn, giáo lý…, còn loan báo Tin Mừng thì chỉ là việc làm thêm, hoàn toàn tùy hỷ, nghiệp dư. Nhưng, theo Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, linh mục có nhiệm vụ phải biến cộng đoàn được trao phó thành cộng đoàn loan báo Tin Mừng. Ngài nói: “Tất cả các linh mục phải có một tâm hồn và một não trạng thừa sai, phải mở rộng tầm nhìn hướng tới các nhu cầu của Giáo Hội và của thế giới, chú tâm tới những người ở xa cách nhất, và trên hết, tới những tập thể ngoài Kitô giáo trong môi trường của mình. Trong kinh nguyện và đặc biệt trong hy tế Thánh Thể, các linh mục phải cảm nhận được mối quan tâm ân cần của toàn thể Giáo Hội đối với toàn thể nhân loại” (SVĐCC 67).
3- Các tiến chức thân mến, như Chúa Cha đã sai Đức Kitô, Đức Kitô cũng sai các con đi loan báo Tin Mừng tại một vùng đất nghèo, khí hậu khắc nghiệt, điều kiện xã hội khó khăn, nhiều thiên tai, lắm nhân tai! Hãy nhớ lời Chúa dạy: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói”; “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”; “Vào nhà nào, anh em hãy chúc bình an cho nhà ấy”; “Anh em hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”
Giáo Hội chúng ta đã trải qua những năm dài với “mục vụ bảo tồn”, lo bảo vệ các tín điều, duy trì kỷ luật, ổn định trật tự, củng cố quyền bính theo não trạng giáo sỹ trị, đầu tư công sức vào xây dựng cơ sở vật chất hay tổ chức nghi lễ long trọng. Kết cục, chúng ta có một Giáo Hội chỉ luẩn quẩn với chuyện nội bộ, bị giam hãm trong những công thức cứng ngắc của chính mình, khá lạnh lùng trước những khổ đau của người nghèo khổ, đứng bên lề cuộc đời, ít dấn thân vào lãnh vực văn hóa và ít quan tâm đến vận mệnh đất nước!
Phải chăng đã đến lúc cần đặt nổi sứ vụ linh mục trong căn tính thừa sai và lấy loan báo Tin Mừng làm định hướng cho mọi hoạt động? Do đó, lời mời gọi dấn thân của Đức Thánh Cha Phanxicô phải là tâm nguyện của các con: “Tôi thà có một Giáo hội bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc bụi đường, hơn là một Giáo Hội ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục. Nếu có cái gì đáng phải khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong đời”.
Xin Chúa Thánh Linh đừng để chúng ta cứ giữ khư khư những tập tục lỗi thời hay mãn nguyện với những lối mòn quen thuộc. Xin luồng gió Thanh Linh thổi bay mọi sợ hãi, khép kín, bảo thủ, u sầu. Xin Ngài ban cho đất nước chúng ta một Lễ Hiện Xuống mới để mọi người hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.
+GM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Nguồn: giaophanvinh.